Các quan điểm về nguyên nhân gây ung thư

Parent Previous Next

CÁC QUAN ĐIỂM VỀ NGUYÊN NHÂN GÂY UNG THƯ


Ngày cứ đến và qua đi, mỗi người trong chúng ta thỉnh thoảng lại nghe người thân, họ hàng, bạn bè thông báo rằng, ai đó vừa phát hiện bị ung thư. Nhiều trường hợp, cũng như tôi, bạn sẽ thấy ngạc nhiên lắm, vì biết rằng: người được thông báo bị ung thư đó không uống rượu, không hút thuốc, rất cẩn thận, vệ sinh trong ăn uống, sống điều độ. Vậy thì cái gì đang xảy ra, khi căn bệnh ung thư cứ từng ngày từng giờ tấn công rất nhiều người thuộc đối tượng “không có nguy cơ ung thư cao”? Cho đến bây giờ, chưa ai trả lời được một cách rõ ràng câu hỏi: vậy nguyên nhân gây ung thư là gì? Ở đây, tôi chỉ xin liệt kê lại các quan điểm khác nhau về nguyên nhân gây ung thư. Tôi không có ý định ủng hộ hoặc phản đối quan điểm nào. Mục đích của tôi là cung cấp thông tin càng đầy đủ càng tốt cho bạn đọc, còn việc chứng minh quan điểm nào đúng, xin nhờ các nhà các nhà khoa học nghiên cứu.


1. Theo quan điểm chính thống: nguyên nhân chính dẫn đến ung thư là do di truyền. Tuy nhiên, cũng chưa ai chứng minh được một cách chính thức quan điểm này. Gần đây nhất, người ta đã chứng minh được rằng: một trong những nguyên nhân gây ung thư dạ dày là do loại virus H-Pylori, vì nó làm cho môi trường dạ dày bị axit hóa cao, gây loét mãn tính, dẫn đến việc biến đổi tế bào thường thành tế bào ung thư. Khoa học cũng đã chứng minh được quãng 70% nguyên nhân gây ung thư tử cung là do virus gây ra, và hệ thống y học chính thống đã chấp nhận loại vaxin phòng ngừa ung thư tử cung (vaxin HBV) để tiêm cho các bé gái độ tuổi 12-13. Vậy phải chăng do bị nhiễm virus mãn tính, nên các tế bào của những khu vực đó (dạ dày, tử cung…) bị tổn thương lâu dài, gây nên đột biến gen tế bào, để rồi nó nhân lên nhanh một cách không thể kiểm soát?


2. Các quan điểm chưa chính thống về nguyên nhân gây ung thư: điểm khác nhau cơ bản giữa quan điểm chính thống và các quan điểm tôi nêu dưới đây (alternative) là: theo quan điểm chính thống, mỗi dạng ung thư (ví dụ: ung thư phổi, dạ dày, tử cung…) được coi là những dạng bệnh riêng biệt. Còn theo quan điểm mà tôi tìm hiểu, một khi ung thư đã phát triển trong bất cứ bộ phận nào của cơ thể, thì nó đều có chung những cơ chế, cũng như những đặc tính điển hình của tế bào ung thư. Xin bạn đọc kiên trì, đừng sốt ruột mà bỏ qua phần này. Một khi hiểu được từng quan điểm về nguyên nhân gây ung thư, thì bạn mới có thể áp dụng đúng những phương pháp chữa dựa trên quan điểm đó, giúp bạn tự tin hơn về lựa chọn của mình.


2.1. QUAN ĐIỂM TẾ BÀO NHAU THAI GIAI ĐOẠN ĐẦU CỦA THAI SẢN

(TROPHOBLAST):


Giáo sư John Beard (Scotland), là người đầu tiên nêu ra quan điểm này vào năm 1902. Ông chứng minh rằng: các tế bào ung thư giống hệt với cách tạo thành nhau thai ở tử cung người phụ nữ trong những tuần đầu khi có thai. Khi người phụ nữ bắt đầu có thai, các tế bào này (trophoblast) phát triển rất nhanh để tạo thành nhau thai (imbilical cord and placenta). Đặc tính chung của tế bào ung thư và tế bào tạo thành bào thai trong mấy tuần đầu là: cả hai loại tế bào này đều sản xuất ra hooc môn CGH (chorionic gonadotrophic hormone), loại hooc môn có thể tìm thấy ở nước tiểu. Không một loại tế bào nào khác trong cơ thể (ngoài tế bào ung thư và tế bào tạo thành bào thai giai đoạn sớm) có thể sản sinh ra loại hormone CGH này. Điều này có nghĩa là: nếu thử CGH của nước tiểu, và bị dương tính, thì hoặc người đó có thai, hoặc bị ung thư. Đây chính là cơ sơ của phương pháp thử Navarro (Navarro test) sẽ được nói đến ở chương 6.


Tế bào nhau để nuôi thai (trophoblast) của mấy tuần đầu khi người phụ nữ mang thai được nhân lên rất nhanh, tạo thành môi trường bảo vệ và nuôi bào thai (nhau và cuống thai). Vậy tại sao những tế bào này không bị hệ thống miễn dịch tiêu diệt, như là những tế bào lạ (foreign cells)? Đó là vì mỗi tế bào này được bao bọc bởi một lớp đạm đặc biệt (protein coating). Lớp đạm này mang tĩnh điện học âm tính (negative electrostatic charge), tương tự như tĩnh điện học của tế bào bạch cầu (white blood cells), và bởi vậy nó thoát khỏi sự tấn công của các tế bào bạch cầu của hệ thống miễn dịch.


Điều đặc biệt là mỗi tế bào ung thư (và chỉ tế bào ung thư) cũng được bao bọc bởi lớp đạm (protein coating) này. Và đây cũng là lý do vì sao tế bào ung thư lại khó bị hệ thống miễn dịch của cơ thể tiêu diệt đến vậy. Thế tại sao tế bào tạo thành nhau thai không phát triển mãi (như tế bào ung thư)? Giáo sư Beard đã phát hiện ra là nhau thai ngừng xâm lấn tử cung đúng vào thời điểm khi tuyến tụy của bào thai trong tử cung bắt đầu hoạt động và sản xuất ra enzymes tụy (vào quãng tuần thứ tám của qua trình mang thai). Nếu không có enzymes tụy, nhau thai sẽ phát triển như khối u ung thư biểu mô màng đệm và giết chết bà mẹ cũng như bào thai rất nhanh.


Năm 1911, giáo sư Beard đã viết cuốn sách về việc chữa ung thư bằng phương pháp Enzyme (Enzyme treatment of cancer and it’s scientific basis). Độc giả có thể tìm thấy thông tin về quan điểm này tại trang web:

http://alternative-doctor.com/cancer/beard.htm


Giáo sư Beard tiếp tục nghiên cứu để chứng minh liệu có thể làm cho tế bào ung thư (về tính chất giống hệt tế bào nhau thai) ngừng phát triển hoặc tự chết, bằng cách sử dụng enzymes tụy? Ông còn đi xa hơn trong nghiên cứu bằng lý luận rằng: tế bào ung thư thực ra chính là tế bào nhau thai giấu mặt còn sót lại đâu đó trong cơ thể, được hoạt hóa lại khi cơ thể bị căng thẳng kéo dài và tích chất độc (toxin) quá nhiều. Thuyết enzymes của ông đã được chứng minh bằng thực tế: trong vòng nhiều năm sau đó, rất nhiều bệnh viện đã sử dụng enzymes tụy để chữa cho bệnh nhân ung thư, và đạt những kết quả rất đáng khích lệ. Vào những năm 1960, William Dolly Kelley (nha sĩ bang Texas) đã tự chữa khỏi ung thư tuyến tụy giai đoạn 4 bằng thuyết của giáo sư Beard, sau đó phát triển thành phương pháp tự chữa ung thư theo chế độ dinh dưỡng cộng với sử dụng liều cao emzymes tụy. Phương pháp này đạt mức thành công tới hơn 90% đối với những bệnh nhân mà hệ thống miễn dịch và các bộ phận khác của cơ thể (gan, thận, thần kinh…) chưa bị hủy hoại bởi hóa trị và xạ trị với liều quá cao. Độc giả có thể tham khảo phương pháp tự chữa ung thư của ông Kelly trên những websites sau:

http://educate-yourself.org/cancer/kellysmetabolictherapy.shtml

http://www.quackwatch.com/01QuackeryRelatedTopics/Cancer/kg.html
http://lindung.com/metabolic-cancer-therapies/


Tiếp tục quan điểm của giáo sư John Beard, ông Edward Griffin khẳng định trong quyển sách “World without cancer” rằng: trong cơ thể mỗi người đều có các tế bào bình thường khỏe mạnh giống tế bào nhau thai (trophoblast like). Các tế bào này có thể bị kích thích để hoạt động, một khi bất cứ bộ phận nào của cơ thể bị thương tổn, cần quá trình phục hồi (ví dụ: làm lành vết thương). Trong điều kiện bình thường, các tế bào này có cơ chế tuyệt vời để giúp cơ thể phục hồi các chấn thương, vì là những tế bào phát triển nhanh, và vì chúng có khả năng phát triển thành mọi dạng tế bào khác. Cơ chế hoạt động của cơ thể trong trường hợp bị thương tổn là: Kích hoạt các tế bào (trophoblast like) tới những bộ phận cần có sự phục hồi (với sự trợ giúp của các loại hormones khác nhau). Khi vết thương lành, và cơ thể khỏe mạnh, hệ thống miễn dịch sẽ chặn đứng sự nhân lên nhanh chóng của tế bào “trophoblast like”. Nói cách khác, theo Griffin, ung thư bắt đầu bằng một cơ chế hoàn toàn bình thường của cơ thể (quá trình phục hồi), nhưng nếu vết thương là mãn tính công với một hệ thống miễn dịch bị suy yếu, thì cơ thể không còn kiểm soát được quá trình đó một cách hiệu quả. Mỗi một chấn động hoặc vết thương đều gây nên tổn thương cho tế bào khu vực đó một cách tạm thời (ví dụ: gãy xương, vết bầm…), và các tế bào giống tế bào nhau thai lập tức được điều tới để làm lành vết thương một cách có kiểm soát. Nhưng khi bộ phận nào đó của cơ thể liên tục đòi hỏi phải được phục hồi (trong trường hợp bệnh mãn tính), thì quá trình phục hồi xảy ra liên tục. Và khi đó, các tế bào giống tế bào nhau (trophoblast like) sẽ liên tục bị kích hoạt để cố gắng thay thế các tế bào bị thương tổn một cách liên tục, nhằm chữa lành vết thương mãn tính. Các tế bào bị tổn thương dạng mãn tính xảy ra vì nhiều lý do: dưới tác dụng của nhiều loại hóa chất, phóng xạ, các chất độc, hoặc còn do kết quả của chế độ dinh dưỡng kém – không cung cấp đủ chất cho sự phát triển bình thường của tế bào. Trong những trường hợp này, các tế bào giống nhau thai sẽ phải nhân lên rất nhanh, và trở lại cơ chế phát triển của nhau thai khi chưa xuất hiện enzymes tụy của bào thai, có lớp đạm bao bọc bên ngoài để bảo vệ chúng khỏi sự tấn công của hệ thống miễn dịch.


Vậy các enzymes tụy (pancreatic enzymes) là gì? Đây là những enzymes được tuyến tụy sản xuất ra, với các chức năng :


- Một số loại sẽ đi vào hệ thống tiêu hóa, phân hủy đạm và các loại chất khác giúp cơ thể hấp thụ được dinh dưỡng


- Một số loại enzymes khác sẽ theo máu đi khắp nơi trong cơ thể, khi gặp tế bào giống tế bào nhau thai (trophblast like), nó sẽ tiêu hủy lớp màng đạm bảo vệ (mang tĩnh điện học âm tính) của tế bào đó. Và khi đó, các tế bào máu trắng của hệ thống miễn dịch có thể tiêu diệt nó. Vì vậy, khi tuyến tụy không cung cấp đủ enzymes vì một lý do nào đó (các căng thẳng hoặc bệnh mãn tính đòi hỏi lượng lớn enzymes mà tụy không thể sản xuất kịp), hoặc hệ thống miễn dịch hoạt động không tốt, các tế bào giống nhau thai có thể liên tục phát triển một cách không thể kiểm soát – thành tế bào ung thư. Hai enzymes quan trọng nhất để phân hủy lớp đạm bảo vệ tế bào ung thư là Trypsin và Chymotrypsin.


Thuyết này cũng nêu ra các đặc điểm chung của tế bào ung thư (bất kể loại ung thư gì):
- Tất cả các tế bào ung thư đều có lớp màng bảo vệ bằng chất đạm, giúp chúng khó bị sự tấn công của hệ thống miễn dịch

- Tất cả các tế bào ung thư đều tiết ra hormone CGH

- Việc cung cấp đủ enzymes tụy cho cơ thể là một trong những yếu tố quan trọng nhất để chặn đứng sự phát triển của mọi loại ung thư.


2.2. GIÁO SƯ OTTO WARBURG VÀ QUAN ĐIỂM TẾ BÀO KỊ KHÍ

(ANAEROBIC CANCER CELLS):


Giáo sư Warburg (người Đức) hai lần được giải Nobel, một lần vào năm 1931 về nghiên cứu cơ chế hô hấp của tế bào. Theo ông, sự phát triển của tế bào ung thư bắt đầu bằng việc thiếu oxy.

Ung thư không thể sống trong môi trường giàu oxy. Ung thư có một lý do cơ bản nhất: đó là sự thay thế việc hô hấp oxy bình thường của tế bào khỏe mạnh bằng việc hô hấp thiếu oxy. Trong điều kiện bình thường, tế bào hô hấp oxy để sinh ra năng lượng. Khi thiếu oxy, để có thể tồn tại, tế bào biến đổi dần thành tế bào kị khí (anaerobic cells). Để sinh ra năng lượng, tế bào ung thư thay thế việc hấp thụ oxy (một cách bình thường của tế bào khỏe mạnh) bằng quá trình lên men của đường. Với ông, ung thư không còn là điều bí ẩn. Nó xuất hiện khi tế bào chỉ nhận 60% lượng oxy mà nó cần. Tất cả tế bào bình thường sinh ra năng lượng bằng quá trình hấp thụ oxy, còn tế bào ung thư đáp ứng năng lượng chủ yếu bằng quá trình lên men của đường. Tất cả các tế bào bình thường đều ưa khí (aerobic cells), còn tế bào ung thư luôn luôn yếm khí (anaerobic cells). Tóm lại, giáo sư Warburg cho rằng ung thư bắt đầu khi tế bào bình thường biến đổi từ ưa khí thành yếm khí. Lý do thật sự của sự biến đổi này chưa được ai chứng minh, nhưng có quan điểm cho rằng: môi trường bên trong cơ thể có thể bị axit hóa do nhiều tác động khác nhau, mà chủ yếu là chế độ dinh dưỡng và môi trường cũng như cách sống, tạo thành điều kiện thuận lợi cho ung thư phát triển. Ở mức độ tế bào, nếu bị axit hóa cao, sẽ là môi trường thiếu oxy. Để có thể tồn tại, tế bào khỏe mạnh phải dần biến đổi để có thể thích hợp với sự yếm khí – thành tế bào ung thư. Các thông tin về quan điểm của giáo sư Otto Warburg có thể tìm thấy tại các websites sau:

http://www.stopcancer.com/ottolecture.htm
http://www.ionizers.org/Otto-Warburg.html
http://www.raw-wisdom.com/warburg


2.3. QUAN ĐIỂM VIỆC THIẾU HỤT CHẤT BÉO CẦN THIẾT CỦA GIÁO SƯ JOHANNA BUDWIG:


Giáo sư Johanna Budwig (sinh ngày 30 tháng 9 năm 1908, mất ngày 19 tháng 5 năm 2003 – bảy lần được đề nghị giải Nobel, nhà dược học, hóa học, vật lý học, với bằng tiến sĩ về vật lý. Bà từng phụ trách nhóm chuyên gia nghiên cứu về thuốc và chất béo ở Viện nghiên cứu chất béo tại Đức. Bà được giới chuyên môn công nhận là chuyên gia hàng đầu thế giới về dầu và chất béo (world’s leading authority on fats and oils. Bà nghiên cứu rất sâu về tác động độc hại lên cơ thể của sự hydro hóa và các chất béo đã bị làm biến chất, đồng thời cũng kết luận về khả năng kỳ diệu của các axit béo thiên nhiên thiết yếu trong việc chữa bệnh mãn tính, kể cả ung thư. Bà đã viết một loạt sách, bao gồm: “Ung thư- Vấn đề và giải pháp”; “Dầu Flaxseed – Sự cứu giúp trong việc chữa các bệnh Viêm khớp, Nhồi máu cơ tim, Ung thư và các bệnh mãn tính khác”; “Thực đơn chế độ ăn đạm và dầu…”


Năm 1952, Giáo sư Budwig đã viết nhiều tài liệu về một kết luận quan trọng: các chất béo không bão hòa là nhân tố quyết định trong việc đảm bảo kích thích hô hấp của tế bào. Kết hợp với chất đạm (amino axit – protein), chất béo không bão hòa giữ vai trò quan trong, thậm chí là vai trò quyết định - là cái cầu nối giữa chất béo và đạm - trong việc hấp thụ ô xy của tế bào. Chất béo có vị trí trong tất cả các quá trình lớn lên và phát triển, trong việc tạo máu và nhiều quá trình khác. Và do đó, nếu cơ thể thiếu các chất béo thiết yếu, ung thư sẽ xuất hiện. Trên cơ sở của nghiên cứu này, Dr. Budwig đã chữa cho rất nhiều bệnh nhân ung thư bằng chế độ ăn kết hợp dầu và đạm (gọi là Budwig diet hoặc protocol), sử dụng Flaxseed oils (dầu hạt lanh – chứa rất nhiều Omage -3 ALA) và Cottage Cheese (một loại fomai đặc biệt ít béo), làm cho tế bào ung thư tăng cường hấp thụ ô xy. Như bạn đã biết từ phần trên về quan điểm của giáo sư Otto Warburg, ung thư xuất hiện trong môi trường thiếu oxy. Hay nói cách khác, ung thư không thể sống trong môi trường giầu ô xy. Dr. Budwig đã đưa ra một cách giải thích lý do vì sao tế bào khỏe mạnh (aerobic cells ) lại biến thành tế bào ung thư (anaerobic cells), và thực hiện tiếp phần mà Dr. Otto Warburg không làm được: đó là tìm ra phương pháp giúp tế bào hô hấp bình thường, tạo môi trường giàu ô xy làm cho tế bào ung thư không thể phát triển và sẽ bị tiêu diệt. Xin tham khảo các websites sau nếu bạn muốn có thêm thông tin:

http://www.budwigcenter.com/
http://www.healingcancernaturally.com/budwig_protocol.html
http://www.healingcancernaturally.com/lothar-hirneise-johanna-budwig.html


2.4. QUAN ĐIỂM VỀ THIẾU HỤT VITAMIN B-17 CỦA BÁC SĨ ERNST T. KREBS.


Theo một số tài liệu cổ được tìm ra tại Ai cập trên giấy cói (vào thời Pharaohs) cách đây 5000 năm, cũng như tại Trung quốc cách đây 2500 năm, đã nói đến việc sử dụng chiết xuất từ hạt quả hạnh nhân đắng - hạt mơ (bitter almond) để chữa một số khối u trên da. Năm 1802, nhà hóa học Bohn, trong khi chiết xuất nước từ quả hạnh nhân đắng, đã phát hiện ra là có acid hydrocyanic thoát ra. Ngay sau đó, rất nhiều nhà khoa học rất quan tâm phân tích chiết xuất này, và đặt tên nó là “Amygdalin” (Amigdala – nghĩa là almond). Người đầu tiên chính thức nêu lên quan điểm về sự liên quan giữa thiếu hụt Vitamin B-17 (còn được gọi là Amigdalin hoặc Laetrile) là bác sĩ Ernest T. Krebs, vào đầu những năm 1950. Vào năm 1952, ông cùng con trai (là một nhà hóa học) đã chứng minh được rằng: sự thiếu hụt Vitamin B-17 là một trong những nguyên nhân gây ung thư. Hai bố con ông cũng nêu lên sự liên quan giữa quan điểm “Tế bào nhau thai giai đoạn sớm – trophblast” và quan điểm thiêu hụt Vitamin B-17. Các ông nêu rõ rằng: các enzymes tụy là hàng rào phòng thủ đầu tiên chống ung thư, bằng cách phá hủy lớp đạm bảo vệ bao bọc tế bào ung thư. Và nguồn Vitamin B-17 từ các loại thức ăn sẽ kết hợp cùng với tế bào máu trắng (white cells) tấn công tế bào ung thư và tiêu diệt nó. Người ta gọi Vitamin B-17 là “quả bom thông minh”. Ở mức độ phân tử, khi Vitamin B-17 tiếp xúc với enzyme beta- glucosidase, sẽ xảy ra phản ứng hóa học tạo ra hai phân tử glucose, một phân tử benzaldehyde và một phân tử hydrogen cyanide (HCN). Phân tử benzaldehyde là độc tố với tế bào ung thư, và HCN cũng vậy. Trong sự kết hợp với nhau, hai loại phân tử này tạo ra độc tố mạnh gấp hơn một trăm lần đối với tế bào ung thư, so với từng loại riêng lẻ. Nó ngay lập tức phá hủy tế bào ung thư như một quả bom nhỏ. Điều kỳ diệu là : HCN chỉ được tạo ra khi có sự xuất hiện của enzyme beta-glucosidase, mà loại enzyme này có mặt và chỉ có mặt trong tế bào ung thư. Mặt khác, trong tế bào khỏe mạnh luôn có enzyme rhodanese. Khi tiếp xúc, enzyme này trung hòa cyanide. Kỳ lạ là enzyme rhodanese có mặt ở khắp nơi trong cơ thể, trừ những nơi có ung thư. Vì vậy, bất cứ nơi nào có ung thư, vitamin B-17 tiêu diệt tế bào ung thư. Nơi nào không có ung thư, nó được trung hòa và không hề gây độc với tế bào thường.


2.5. QUAN ĐIỂM VỀ VIRUS, VI KHUẨN, NẤM CỦA ÔNG ROYAL RIFE.


Quan điểm này cho rằng một số loại virus, vi khuẩn và nấm là nguyên nhân chính gây nên căn bệnh ung thư. Môt số nhà nghiên cứu như: ông Royal Rife, bà Virginia Livingston, ông Gaston Naessens đã chứng minh được liên quan của một số loài này với căn bệnh ung thư. Đặc biệt có giá trị là những phát minh và nghiên cứu của ông Royal Rife.


Năm 1913, khi 25 tuổi, Royal Raymond Rife (sinh ngày 16/5/1888, mất ngày 05/8/1971) rời New York đến San Diego. Rife say mê nghiên cứu vi khuẩn, kính hiển vi và điện tử. Vào cuối những năm 1920s, ông đã hoàn thiện giai đoạn đầu của quá trình nghiên cứu: ông chế tạo được loại kính hiển vi đầu tiên, vượt qua mọi nguyên lý đương thời, đồng thời tạo ra được loại máy cho phép dùng sóng điện tử (radio và video waves) diệt các vi sinh vật (micro-organism). Ông tìm ra phương pháp nhuộm màu virus bằng sóng ánh sáng, và bắt đầu chế tạo kính hiển vi có thể kết hợp sóng ánh sáng và một số thành phần hóa chất để quan sát vi sinh vật. Năm 1929, việc chế tạo chiếc kính hiển vi thứ 2 của ông hoàn thành. Trong bài báo ra ngày 27/12/1931 phương pháp nhuộm màu bằng ánh sáng của ông được giới thiệu với công chúng : «Khuẩn hình que được nghiên cứu bằng ánh sáng nó phát ra, giống hệt như các nhà thiên văn học nghiên cứu mặt trăng, mặt trời và các vì sao từ ánh sáng chúng phát ra bằng kính thiên văn. Chỉ khác nhau do khuẩn hình que là sinh vật sống (không phải là tinh thể chết), nên có thể bị giết chết trong quá trình nghiên cứu »


Rife bỏ ra hàng năm trời để quan sát sự phát triển và biến dạng của các loại virus, vi khuẩn, nấm…trong khối u ung thư của chuột. Sau đó, ông cấy các loài đó để gây ung thư trên chuột. Ông tập trung sức lực để tìm cách định dạng và tiêu diệt các vi sinh vật (micro-organism) gây nên bệnh ung thư. Ông bắt đầu nghiên cứu về ung thư từ năm 1922. Ông mất 10 năm để phân lập loại vi sinh vật gây ra ung thư, và đặt tên chúng một cách đơn giản là « BX virus ».


Từ năm 1931, ông được giáo sư Arthur I. Kendall, Giám đốc viện nghiên cứu y học của trường đại học y Northweston ở Illinois và giáo sư Milbank Johnson, thành viên ban quản trị bệnh viện Pasadena ở Califonia hết lòng ủng hộ và giúp đỡ. Vào ngày 20/11/1931, giáo sư Johnson tổ chức bữa ăn tối (có khoảng 30 giáo sư và bác sỹ hàng đầu về y học Mỹ tham dự) để ông Rife công bố kết quả nghiên cứu: lần đầu tiên trong lịch sử, loại vi sinh vật gây bệnh ung thư giết người có kích thước bằng virus được quan sát ở dạng sống (các kính hiển vi điện tử sau này đều giết chết virus trong quá trình quan sát). Ngày 22/11/1931, báo Los Angeles Times đăng tin về phát minh quan trọng này : Sử dụng kính hiển vi siêu mạnh của ông Rife (phóng đại 17,000 lần), có thể quan sát được khuẩn thương hàn hình cây ở dạng virus. Trong bữa ăn tối, tất cả khách dự đều thể hiện sự kính trọng và thống nhất là ông Rife xứng đáng được lọt vào danh sách những nhà khoa học hàng đầu trên thế giới. Năm ngày sau, Los Angeles Times đăng ảnh của ông Rife và ông Kendall cùng với kính hiển vi với tiêu đề « Kính hiển vi mạnh nhất thế giới ». Ngày 27/12/1931, Los Angeles Times đưa tiếp tin về việc ông Rife chứng minh trước 250 nhà khoa học về khả năng quan sát virus của kính hiển vi siêu mạnh : « Dụng cụ mà Rife phát minh đã cách mạng hóa phương pháp nghiên cứu vi khuẩn và virus trong phòng thí nghiệm ». Ngày 03 và 04 tháng 5 năm 1932 đã được chọn để ông Kendall và Rife trình bày trước « Hiệp hội các bác sĩ của Mỹ » tại trường đại học Johns Hopkins ở Baltimore. Tuy nhiên, có hai giáo sư là Thomas Rivers và Hans Zinsser đã dùng ảnh hưởng cá nhân để ngừng hội nghị này. Thomas Rivers và Hans Zinssers là hai giáo sư có thế lực và rất có ảnh hưởng trong việc vận động hành lang. Các giáo sư vi khuẩn học hầu hết đều e ngại họ. Và vì vậy, phát minh của Rife và Kendall, đáng ra đã mở màn một cuộc cách mạng mới trong nền y học thế giới của thế kỷ 20, đã bị chặn đứng. Nhưng cũng có một số người không sợ thế lực đe doạ từ Rivers và Zinssers, trong số họ có hai giáo sư là Dr. William H. Welch, Dr. Edward C. Rosenow. Chỉ 2 tháng sau sự kiện đáng xấu hổ của Rivers và Zinssers, ngày 5-7 tháng 7/1932, Dr. Edward của bệnh viện Mayo đã gặp Rife và Kendall tại phòng thí nghiệm trong 3 ngày để trực tiếp quan sát các virut biến thể trên kính hiển vi do Rife chế tạo. Ông cũng khuyên Rife nên dành thời gian để viết lại cụ thể những gì đã đạt được.


Ngày 20/11/1932 lần đầu tiên đặc điểm của virus ung thư được viết và mô tả lại rõ ràng. Theo cách mô tả đặc biệt của ông Rife: khi sử dụng kính hiển vi của ông để quan sát : khúc xạ góc : 12-3/10 degrees, màu theo khúc xạ hóa chất : tía đỏ. Kích thước của virus ung thư rất nhỏ : dài 1/15 micron, rộng 1/20 micron. Ông Rife và trợ lý đã thực hiện thí nghiệm này 104 lần và chuẩn bị đầy đủ cơ sở để công bố phát minh này. Ông cũng đã chứng minh được virus ung thư có 4 dạng :


1) BX (ung thư biểu mô)

2) BY (bướu thịt, u – lớn hơn BX)

3) Monococcoid (dạng lá mầm), có trong máu của hơn 90% bệnh nhân ung thư.

4) Crytomyces pleomorphia fungi (nấm nhiều hình) có hình dạng tương tự như hoa phong lan hoặc nấm. Rife đã viết trong sách vào năm 1953: “Cả ba dạng sau đều có thể biến đổi trở lại dạng BX trong vòng 36 tiếng”. Quá trình biến đổi này đã được thực hiện hoàn thiện trong phòng thí nghiệm 300 lần với kết quả tốt. Ông cũng đã chứng minh được là virus biến thể khi thay đổi môi trường, và chứng minh các lý thuyết của Becchamp, Kendall, Rosenow và Welch, những người ủng hộ Rife và đã cùng ông tranh luận với trường phái chính thống của Rivers để tìm ra lẽ phải. Ông cũng viết: “Trong thực tế, không phải virus hoặc vi khuẩn gây nên ung thư hoặc bệnh mãn tính, mà là phần tử hóa học (độc tố) do các vi sinh vật tiết ra, tác động lên tế bào đang bị mất cân bằng về chuyển hóa chất (metabolise) , sinh ra bệnh tật. Chúng tôi cũng tin chắc chắn rằng: nếu sự chuyển hóa chất của cơ thể con người cân bằng thì sẽ không có bệnh mãn tính.” Rife đã không có thời gian để tranh luận tiếp, ông bắt tay ngay vào việc chế tạo một cái máy sử dụng sóng tần số để diệt các vi sinh vật gây ung thư. Năm 1953, ông viết “Thí nghiệm này đã thành công 400 lần khi diệt virut ung thư thử nghiệm với động vật, trước khi thử nghiệm trên người bị ung thư biểu bì và khối u.”. Vào hè năm 1934 , 16 bệnh nhân ung thư giai đoạn nguy cấp, một số người đã mê man bất tỉnh, được đưa tới một nông trại ở Ellen Scripps. Tại đó, Rife và các bác sĩ lần đầu tiên sử dụng phương pháp máy tạo tần số (frequency generator) để chữa cho người. Mỗi bệnh nhân được chữa bằng máy với tần số phù hợp, 3 phút một lần, với khoảng cách 3 ngày/lần. Sau 3 tháng, 14 trường hợp đã được 5 bác sĩ ký giấy xác nhận khỏi bệnh. Vào năm 1956, bác sĩ James Couch đã tuyên bố: “Tôi rất vui sướng thông báo sự kiện kỳ diệu của khoa học về chiếc máy tần số của ông Rife”.


Tôi xin không đi sâu thêm vào chi tiết là tại sao sau đó những phát minh của ông Rife không được chấp nhận, và toàn bộ kính hiển vi cũng như máy tạo sóng (Frequency Generator) bị tịch thu và phá hủy. Chỉ tóm lại là: lịch sử của sự việc này kéo dài và đau thương, cũng chứng minh cho một điều: sự thật, dù đã được chứng minh, không phải bao giờ cũng được công nhận. Thật đáng tiếc, chữa ung thư bằng máy tạo sóng Rife có thể đã trở thành phương pháp đơn giản và hiệu quả nhất, nhưng các máy móc do ông chế tạo ra bị hủy diệt hoàn toàn, phòng thí nghiệm bị đốt. Hiện nay, không ai dám chắc chắn là những máy tạo sóng được rao bán qua mạng, đựợc quảng cáo là theo phương pháp của ông Rife, có thực sự hiệu quả không. Vì vậy, thường hiện nay, nó được sử dụng để hỗ trợ cho các phương pháp khác. Sẽ rất rủi ro nếu bạn chỉ dùng phương pháp này.


Nếu bạn muôn biết thêm thông tin hoặc xem video về sự việc, xin vào websites:

http://www.youtube.com/watch?v=AysfKyl8O9k
http://www.rife.org/
http://www.royalrife.com/
hoặc đặt quyển sách “The Cancer cure that worked” mô tả toàn bộ sự việc xảy ra trên website

http://www.ratbags.com/rsoles/books/reviews/bl_rife.htm


2.6. QUAN ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC GIÁO SƯ VÀ BÁC SĨ ĐANG THỰC HIỆN VIỆC CHỮA TRỊ UNG THƯ BẰNG CÁC PHƯƠNG PHÁP KHÔNG ĐỘC HẠI (ALTERNATIVE CANCER TREATMENTS):

Trong những năm gần đây, rất nhiều nhà khoa học và bác sĩ đã và đang tiến hành đánh giá lại bản chất cũng như nguyên nhân gây ung thư.


Quan điểm cũ coi ung thư là căn bệnh riêng biệt của một bộ phận, mà đặc điểm là khối u ác tính xuất hiện tại cơ quan nào đó trong cơ thể. Với quan điểm này, khối u xuất hiện có thể do các nguyên nhân: di truyền, sự tấn công của virus từ bên ngoài, các chất sinh ung thư, hoặc các chấn thương nặng.

Ngày nay, các nhà nghiên cứu và bác sĩ ngày càng khẳng định rằng: ung thư là kết quả cuối cùng của sự hỗn loạn về chuyển hóa chất (metabolise of body chemistry) trong cơ thể. Nó diễn ra âm thầm trongtoàn bộ cơ thể, với sự rồi loạn từ từ của tất cả các bộ phận: thần kinh, tiêu hóa, tụy, phổi, bài tiết, nội tiết, và hệ thống phòng thủ (miễn dịch) của cơ thể. Sự xuất hiện trở lại nhanh chóng của các khối u di căn, sau khi mổ, hóa trị hoặc xạ trị, là do nguyên nhân chính gây ung thư (rối loạn chuyển hóa), không được tính đến và không được chữa, trong khi bộ phận phòng thủ của cơ thể là hệ thống miễn dịch thì bị suy yếu trầm trọng do tác dụng phụ của hóa/xạ trị, và ít khi được hỗ trợ để vực dậy.


Tổng hợp lại, các nguyên nhân chính gây ung thư có thể được liệt kê như sau:


Nguyên nhân 1: hệ thống miễn dịch yếu. Hệ thống miễn dịch (immune system) thường bị suy yếu do các cú sốc lớn về tâm lý như: người thân chết, ly dị, các vấn đề trong gia đình (tài chính, con cái, mâu thuẫn…), làm việc quá tải trong thời gian kéo dài, cách nghĩ bi quan triền miên, thiếu sự nghỉ ngơi cần thiết hoặc chế độ dinh dưỡng không đúng. Ông Ed Sopcak, nhà nghiên cứu về ung thư, đã tư vấn cho hơn 30,000 bệnh nhân ung thư tại Mỹ, cho biết là hầu hết các bệnh nhân của ông có các khủng hoảng lớn trước khi bị phát hiện ung thư trong khoảng từ ba tháng đến ba năm.


Nguyên nhân 2: độc tố. Hóa chất độc hại (trong đồ ăn, thức uống, đồ dùng gia đình, tại nơi làm việc, thức ăn gia súc công nghiệp và phân bón, thuốc trừ sâu) , virus, vi khuẩn, giun sán và nấm mốc…được gộp vào trong yếu tố này.


Nguyên nhân 3: chế độ dinh dưỡng không đúng. Các đồ ăn uống nhanh, chế độ ăn quá nhiều chất đạm động vật và các loại mỡ có hại như: chất béo bão hòa (saturated fats), chất béo bị biến đổi sinh ra do dầu có nguồn gốc thực vật bị xử lý ở nhiệt độ cao (transfats), nhưng lại thiếu trầm trọng rau củ và hoa quả tươi sống (rau bị nấu chín kỹ hoặc xào làm mất đi hầu hết dinh dưỡng tốt), cũng như thiếu các chất béo tốt: chất béo chưa bão hòa (unsaturated fats), chất béo đơn tính (monosaturated fats) đều là những nguyên nhân lớn gây nên căn bệnh ung thư.


Nguyên nhân 4: sự thiếu oxy ở mức tế bào. Chất béo bị biến đổi (transfats), có nhiều trong các thức ăn nhanh (rán, chiên kỹ) và các đồ ăn làm sẵn (processed foods), làm cho mức hấp thụ oxy của tế bào giảm sút nghiêm trọng.


Trên thực tế, ung thư có thể do tổng hợp của toàn bộ các nguyên nhân trên, hoặc một nguyên nhân chính mà bệnh nhân có thể tự nhận biết, sau khi đã tìm hiểu về quan điểm mới này. Chế độ dinh dưỡng (ăn uống), lối sống và trạng thái tâm lý – tinh thần đóng vai trò tối quan trọng trong việc phòng ngừa và quá trình chữa trị ung thư. Tất nhiên, mỗi bệnh nhân phải xác định là muốn khỏi bệnh, phải loại bỏ được càng nhiều càng tốt cả bốn nguyên nhân trên. Nhấn mạnh về chế độ ăn uống: lối sống hiện đại làm chúng ta coi chuyện ăn uống không còn là quan trọng. Những bữa ăn thiếu hầu hết các dinh dưỡng cơ bản như: vitamin và khoáng chất cần thiết, các loại chất béo tốt…,ngày càng thịnh hành. Do vậy, bổ sung dinh dưỡng bằng vitamin, khoáng chất (supplements) và thực phẩm chức năng ngày càng đa dạng (functional foods) đang là xu hướng hiện nay tại các nước tiến tiến, đặc biệt là Mỹ.


Created with the Personal Edition of HelpNDoc: Qt Help documentation made easy